Trang

28.4.08


NGƯỜI THỢ MỘC GƯƠNG MẪU
(Linh Mục ANPHONG TRẦN ĐỨC PHƯƠNG)


Có lần đi chung với một phái đoàn, tôi được may mắn viếng thăm Trung Tâm Truyền Giáo Thánh Capsistrano (Mission San Juan Capistrano), là một trong những Trung Tâm Truyền Giáo do Cha Junipero Serra thiết lập dọc theo Tiểu Bang California vào thế kỷ 18. Trung Tâm San Juan được thiết lập vào ngày 01/11/1776. Trong khi thăm viếng, tôi được nghe kể là, hằng năm cứ vào dịp Lễ Kính Thánh Giuse Bạn Đức Trinh Nữ Maria (19/3) là những con chim én bắt đầu bỏ vùng Nam Mỹ xa sáu ngàn dặm để trở về nơi nầy, và hằng năm đều có đại hội rất lớn ở vùng nầy để “chào đón đoàn chim trở về” (Return of the Swallows Celebration). Năm nay, vì Lễ Thánh Giuse vào đúng Tuần Thánh, nên cuộc rước được chuyển vào ngày 29/3, đúng vào lúc chúng tôi có mặt ở đó và được tham dự cuộc rướt rất long trọng với nhiều đoàn biểu diển khác nhau đi qua các đường phố chính ở đây và đi sát ngay con đường bên Trung Tâm Truyền Giáo.

Trong khi ngồi nghỉ chân trong vườn cây của Trung Tâm, tôi lại được một người bạn kể cho nghe câu chuyện về “Người Thợ Mộc Bí Mật”. Đó là câu chuyện xãy ra ở Santa Fe, thủ phủ của Tiểu Bang New Mexico. Vào thế kỷ XIX, khỏng 130 năm trước đây, khi làm nhà nguyện Loretto đã xong, các Bà Phước nhận ra cần phải làm một cầu thang lên “Gác Đàn” (Choir loft) mà không phải biết làm sao. Các Bà li62n làm tuần cầu nguyện 9 ngày (Novena) khấn Thánh Giuse. Ngay vào ngày cuối tuần khấn, thì có một người thợ mộc đến xin giúp làm cầu thang đó. Ông đã làm một cầng thang xoắn ốc để đi lên “gác đàn”. Khi làm xong, ông đi biệt tích luôn và không đòi tiền công gí cả. Đó là một cầu thang kỳ diệu! Một cầu thang xoắn ốc mà không có cột để giử cho cầu thang khỏi đỗ. Hơn nhữa cầu thang được lấp vào mà không hề dung đến đinh để đóng chặt với nhau, mà cũng không cầu keo dán. Các nhà kiến trúc chuyên nghiệp cũng không thể nào hiểu nổi làm sao chiếc cầu thang làm như vậy mà vẫn đứng vững cho người ta đi lên đi xuống, dù đã trải qua 130 năm nay. Gổ làm cầu thang cũng không biết lấy từ đâu, vì cả vủng chung quanh, không có những loại gổ như vậy. Ngày nay khách hành hương đến đây kính viếng rất đông, mỗi năn có cả mấy trăm ngàn người.

Chúng ta thường được nghe nói về những “phép lạ” xãy ra khi cầu khẩn với Thánh Giuse. Các vị Thánh đều có long sung kính thánh Giuse, đi đôi với long sung kính Mẹ Maria. Đọc tiểu sử, thấy có những vị Thánh sau đây có long sung kính thánh Giuse cách đặc biệt; đó là : thánh Magaret Cortona, Briget Sweeden, Vicent Ferrer, Bernadine Sienna, John Gerson Paris. Thánh Teresa Avila lập nhà dòng đầu tiên kính thánh Giuse và nơi “cầu nguyện với thánh Giuse thương được nhận lỗi!”.

Lòng sung kính Thánh Giuse đã có lâu đời trong Giáo hội và thường đi đôi với long sung kính Mẹ Maria trọn đời đồng trinh. Thánh Giuse là Bổn mạng của Giáo Hội Toàn Cầu. Giáo Hội Việt Nam cũng chọn Thánh Giuse làm Bổn mạng vì chính vào ngày Lễ Thánh Giuse (Bạn Đức Trinh Nữ Maria) mà cả các nhà Truyền Giáo đầu tiên đã đạt chân lên đất nước Việt Nam rao giảng Tin Mừng của Chúa. Ngoài ra, Thánh Giuse cũng được các nước sau đây nhận làm Thánh Bổn mạng: Austria, Belgium, Bohemia, Canada, Mexico. Vì là “Người Thợ Mộc Gương Mẫu” tuyệt vời, Thánh Giuse cũng là Bổn mạng các thợ thuyền, đặc biệt những người thợ mộc. Nhiều tu viện, đoàn thể, các Hội Bảo Trợ Ơn Gọi, các Thánh đường, các họ đạo cũng nhận Thánh Giuse là Thánh Bổn Mạng. Rất nhiều người có tên Thánh Bổn Mạng la Giuse. Đức đương kim Giáo Hoàng Benedicto XVI cũng nhận Thánh Giuse làm Bổn mạng và mừng vào dịp lễ Thánh Guse bạn Đức Trinh Nữ Maria. Cũng có nhiều người chọn Thánh Guse làm Thánh Bổn Mạng và kèm them tên Đức Mẹ Mararia, như Đức Hồng Y Giuse Maria Trịnh Như Khuê, Đức Hồng Y Giuse Marua Trịnh Văn Căn. Vì là “Người Cha Gương Mẫu” tuyệt vời, nên Thánh Guse cũng là gương mẫu và bổn mạng cho các người Cha gia đình.

Chúng ta cũng thường gọi Ngài là Thánh Cả Giuse, vì trong Giáo Hội có long sung kính Thánh Giuse cách đặc biệt. Theo truyền thống lâu đời trong Giáo Hội, thứ Tu hang tuần kính Thánh Giuse và tháng Ba là tháng Kính Thánh Giuse. Có hai ngày lễ đặc biệt Kính Thánh Giuse: ngày 19/3 (Kính Thánh Giuse bạn Đức Trinh Nữ Maria) và ngày 1/5 (Kính Thánh Giuse Thợ).

Đọc Phúc Âm, chúng ta thấy Thánh Giuse làm nghề thợ mộc (Mathe6u 13, 55), đời sống rất bình dân, giản dị, nghèo khó. Sách Tin Mừng nói rất ít đến Thánh Giuse. Tên Ngài và vai trò của Ngài theo Thánh Mathêu (Chương 1: 16, 18, 19, 20, 24; Chương 2: 13,14, 19; Chương 13, 55), Thánh Luca (Chương 1: 27; Chương 2: 4-7, 16, 22, 33, 41, 51; Chương 4: 22); Thánh Gioan (Chương 6: 42).

Dù tường trình rất ngắn về cuộc đời Thánh Giuse, nhưng các đoạn Tin Mừng trên đây cho chúng ta thấy Thánh Giuse đã đóng những vai trò rất quan trọng trong cuộc đời thơ ấu của Chúa Gie6su. Qua những biến cố đó, chúng ta thấy Thánh Giuse có nhiều đức tính gương mẫu sang ngời để chúng ta học tập và noi theo.

Trước hết, theo thói tục người Do Thái thời đó (cũng giống như ở Việt Nam thời xa xưa) cha mẹ thường định vợ ga4a3 chồng cho con cái lúc còn nhỏ. Trẻ Giuse và Maria đã được cha mẹ cho đính hôn với nhau (đó cũng là ý Chúa an bài theo chương trình cứu độ của Ngài). Hai tâm hồn thanh niên tuyệt vời được đính hôn với nhau, và là vợ chồng thật theo luật Do Thái hồi đó. Vì khi Đức Mẹ thưa lời “xin vâng” để chịu thai Ngôi Hai, lúc đó không ai biết, kể cả Thánh Giuse. Vì thế, Thánh Giuse khi thấy người bạn mình có thai mà chưa về làm vợ mình, ông đã “không muốn tố giác Maria, chỉ định tâm lìa bỏ Bà cách kín đáo” (Mathe6u 1, 19). Đó là một cử chỉ rất anh hung, vì Thánh Giuse đã không giận dữ, không tìm cách trả thù, không bêu xấu, không “tố giác” Maria để pháp luật trừng trị. Hơn nhữa Ngài lại âm thầm cầu nguyện, và nhờ đó biết ra được Thánh Ý củ Chúa và đã “rước Maria về làm vợ” (Mathe6u 1, 24) theo lề luật để che chở Maria không bị coi là vi phạm lề luật và bị trừng phạt theo luật Do Thái thời đó. Thật là một gương mẫu tuyệt vời để chúng ta noi theo. Khi gặp điều gì bề ngoài có vẻ đi ngược ý chúng ta, xúc phạm đến chúng ta, chúng ta thường nổ giận mà nóng nảy hành động ngay theo tính tự ái “Giận mất khôn” và làm tan vở tất cả. Khi nhận ra điều nóng giận sai trái của mình thì đã quá trể. Noi theo gương Thánh Giuse, khi gặp điều gì rất bất bình, chúng ta đừng vội nóng giận, nhưng hãy bình tỉnh, cầu nguyện và Chúa sẽ cho chúng ta thấy rỏ sự việc, và nhận ra thánh ý Chúa và đường lối nào tốt đẹp nhất để giải quyết sự việc theo thánh ý Chúa. Hành động vội vả, nóng nảy theo tính tự ái, thiếu suy nghĩ và cầu nguyện, luôn đem đến những hậu quả tai hại cho chính mình, cho gia đình và những người xung quanh.
Tiếp theo, khi Đức Maria đang có thai, mà theo lệnh nhà vua, phải về quê hương Belem để khai Sổ Kiểm Tra, Thánh Giuse đứng tru8o71c một hoàn cảnh thật khó khăn, ngặt nghèo, nhưng vâng theo ý Chúa, Ngài cứ lên đường cùng với Maria. Chẳng có phương tiện nào mau chóng hơn là phải đi nhiều ngày đường. Khi đến nơi thì Maria đã đến ngày sinh con, và phải sinh con ‘nơi hang đá bỏ lừa’ vì ‘hai ông bà không tìm được quán trọ’ (Luca 2, 7). Thật là một hoàn cảnh cực kỳ khổ sở mà Thánh Giuse vẫn vui vẻ vâng theo Thánh Ý Chúa.

Rồi thì ít lâu sau, lại được lệnh “Thiên sứ báo tin phải lên đường, đưa con trẻ và mẹ Người trốn sang Ai Cập” (Mathe6u 2, 13). Đường xá xa xôi, phương tiện không có, nhà ngfhe2o túng, không biết nói tiếng Ai Cập, làm sao mà đi, làm sao mà sinh sống nơi xứ lạ quê người. Nhưng vâng theo ý Chúa “ngay đang đêm, Giuse chổi dậy đem con trẻ và Mẹ Người lên đường đi Ai Cập” (Mathe6u 2, 14), chấp nhận tất cả trong sự tuyệt đối tin tưởng nơi sự quan phòng của Chúa. Và hai Ông Bà đã sống ở Ai Cập cho đến khi lại được lệnh Thiên Sứ bảo “hãy đưa con trẻ trở về quê hương”. Giuse “lại chổi dậy đưa gia đình về lại quê hương Nagiare1t”.

Trong cuộc lạc mất Chúa “khi gia đình trẩy hội Đến Thánh Giêrusalem mừng Lễ Vượt Qua” hai Ông Bà thất lạc Chúa Con và phải vất vả tìm con trong ba ngày trời; thế mà khi gặp con nơi Đền thờ, hai Ông Bà không nóng giận, nhưng chỉ nhẹ nhàng trách Chúa: “Con ơi, sao con lại để cha mẹ vất vả tìm con như vậy sao!” (Mathe6u 2, 41…).

Sau thế chiến thứ 2, nhân loại phải trải qua bao biến chuyển dồn dập; con người phải đối diện với những khủng hoảng, những lo âu, thử thách đến tuyệt vọng; rồ những phong trào “tự giải phóng” để hưởng thụ và chà đâp phẩm giá con người, nhất là coi thường giá ytri5 của lao động, của đời sống thợ thuyền; vì thế vào năm 1955, Đức Giáo Hoàng Pio6 XII đã thiết lập Lễ Thánh Giuse Thợ vào ngày 01 tháng 5 là ngày Quốc Tế Lao Động. Ngài có ý nhắc nhở chúng ta đặc biệt noi gương “người thợ mộc thành Nagiarét” “người thợ mộc gương mẫu”; tôn trọng giá trị đời sống lao động, đời sống những người thợ thuyền; yêu cuộc sống và nghề nghiệp của mình; dung bàn tay và lao công để sinh sống và xây dựng thế giới trong chương trình sang tạo của Thiên Chúa.

Cuộc đời mỗi người chúng ta luôn biến chuyển qua nhiều biến cố bất thường, nhiều khó khăn thử thách. Xin Chúa cho chúng ta luôn biết nhìn lên Thánh Giuse “Người Thợ Mộc Gương Mẫu”, cầu nguyện và tuyệt đối tin tưởng vào tình th7o7ng củ Chúa, phó thác mọi sự trong bàn tay quan phòng của Chúa, chăm chỉ chu toàn các bổn phận nhỏ bé hang ngày, sống lương thiện, công chính trong nghề nghiệp, và chung tay xây dựng bản than, gia đình và xã hội.